HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH  HỒ CHÍ MINH VỀ NÊU CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH  VỀ NÊU CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

  1. Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về nêu cao đạo đức cách mạng

Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn rất coi trọng vai trò của đạo đức trong xã hội, cũng như trong đời sống của mỗi người. Người khẳng định, đạo đức là gốc của người cách mạng, “người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Nền tảng ấy cũng ví như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách “có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước… Khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.

Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra 5 điều đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là: (1) Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. (2) Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng. (3) Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. (4) Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. (5) Hòa mình với quần chúng, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. 

Đạo đức cách mạng đó có tầm quan trọng đặc biệt để giúp cho cán bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên hoàn thiện nhân cách, định hướng giá trị trong lối sống và hành động, trong phát triển năng lực sáng tạo và trong ý chí chí, nghị lực, bản lĩnh, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, trong đó có Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, chống chủ nghĩa cá nhân, chống suy thoái, chống quan liêu và tham nhũng cùng các tệ nạn, tiêu cực xã hội

Đối với Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch. Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V.I.Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.

Đối với người Việt Nam nói chung, Người đưa ra những phẩm chất đạo đức cơ bản trong thời đại mới, đó là:

  • Trung với nước, hiếu với dân

Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu”.

 Hiếu với dân nghĩa là cán bộ, Đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”, phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc.

(2) Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình 

Tình thương yêu con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội. Yêu thương con người là phải làm mọi việc để vì con người, vì mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Yêu thương con người là phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì độ lượng, khoan dung, nâng cao con người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.

Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm. 

(3) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là 4 đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương 

Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.

Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, “không xa xỉ, không hoang phí, không bữa bãi…”

Liêm là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “ không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham tâng bốc mình…”

Chính là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên , khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kì được, việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.

Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư đối với người, với việc, “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân đã… khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.

Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội, thể hiện ở 3 điểm sau:

Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức:

Theo Người, đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự nêu gương của thế hệ trước với thế hệ sau, lãnh đạo với nhân viên, đảng viên phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Hai là, xây đi đôi với chống:

Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.

Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hóa sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức, đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện.

Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.

Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu.

Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời:

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã làm người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.

  1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quét sạch chủ nghĩa cá nhân

Theo Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách mạng, cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân.

Những nguy hại của chủ nghĩa cá nhân: Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”. Người thường căn dặn, cách mạng và những người cách mạng phải chiến thắng ba kẻ thù: (1) Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc. (3) Thói quen và truyền thống lạc hậu. (3) Chủ nghĩa cá nhân.

Hồ Chí Minh còn gọi chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm, kẻ địch ở bên trong. Người so sánh: “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá hoại ra”. Vì vậy tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh là kiên quyết chống mọi kẻ thù, đồng thời với đấu tranh đến cùng chống ngoại xâm theo tinh thần “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”, phải kiên quyết “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, bởi chủ nghĩa cá nhân làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên hư hỏng, đạo đức, phẩm chất thấp kém, dẫn đến tham nhũng, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của cách mạng có nguy cơ đe dọa sinh mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, nhất là khi Đảng đã cầm quyền.

Hồ Chí Minh cũng lưu ý, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân nhưng không phủ nhận lợi ích chính đáng của cá nhân, không xem nhẹ vai trò cá nhân, không phủ nhận cá nhân “nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu”.

Hồ Chí Minh suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân và Người cũng suốt đời quan tâm, chăm sóc con người, tôn trọng nhân cách, tính cách, sở trường cá nhân, không vì chống chủ nghĩa cá nhân mà rơi vào giáo điều, cực đoan là phủ nhận vai trò, tài năng sáng tạo của cá nhân. Xác định thái độ và phương pháp đúng đắn, hài hòa, thấu lý đạt tình giữa phát triển cá nhân và xã hội.

Những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân: Hồ Chí Minh nhấn mạnh, chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, là bệnh chính, bệnh mẹ sinh ra trăm thứ bệnh nguy hiểm khác. Có thể nêu 10 loại bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra:

Bệnh quan liêu: xa rời thực tế, xa nhân dân, mất dân chủ. Đối với cấp trên thì xem thường, với cấp dưới cậy quyền lấn át, với quần chúng thì quan cách. Bệnh quan liêu để lại những hậu quả nặng nề đối với Đảng, Nhà nước và xã hội, trước hết là tham ô, lãng phí. Do đó, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí cần phải tiêu diệt bệnh quan liêu.

Bệnh tham lam: đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc. Không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”, chà đạp lên lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Do đó “tự tư, tự lợi”, dùng của công làm việc tư, dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình.

Bệnh lười biếng: tự cho mình cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. Làm biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Ngại khó khăn, gian khổ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách trốn tránh.

Bệnh kiêu ngạo: tự cao, tự đại, hay lên mặt. Ưa người khác khen ngợi, tâng bốc mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang, vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn người khác phê bình mình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác.

Bệnh hiếu danh: tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành.

Bệnh “hữu danh, vô thực”: làm việc không thiết thực, làm cho có chuyện. Làm được ít suýt ra nhiều.

Bệnh cận thị: không trông xa, thấy rộng, chỉ chăm chú những việc vụn vặt.

Bệnh tị nạnh: cái gì cũng muốn “bình đẳng”, sinh ra hiểu lầm hai chữ “bình đẳng”.

Bệnh xu nịnh, a dua: những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái.

Bệnh kéo bè, kéo cánh: ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Từ đó đi đến bè phái, chia rẽ, mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Về giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân: Hồ Chí Minh khẳng định, đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân, do đó, nâng cao đạo đức cách mạng không thể tách rời với chống chủ nghĩa cá nhân, luôn gắn xây với chống. Xây là để nâng cao đạo đức cách mạng, chống là hướng tới mục tiêu quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Để xây và chống có hiệu quả, Người nêu ra những giải pháp chủ yếu:

(1) Giải pháp từ phía Đảng:

Thứ nhất, tăng cường giáo dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – lênin, củng cố lập trường giai cấp vô sản, phải luôn luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cần kiệm xây dựng nước nhà; một lòng một dạ phấn đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ quốc.

Thứ hai, thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như rửa mặt hàng ngày.

Người lưu ý trong tự phê bình và phê bình:

* Phải có tình đồng chí thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, thấu lý đạt tình.

* Phải ráo riết, triệt để, không nể nang, không thêm, không bớt, không suy diễn, quy kết.

Người căn dặn, cần phải đề phòng:

* Đầu cơ, lợi dụng phê bình để trù dập, để đạt mục đích tự tư, tự lợi.

* Dĩ hòa vi quý, không tự phê bình, cũng chẳng phê bình ai.

Thứ ba, chế độ sinh hoạt và kỷ luật đảng phải nghiêm minh. Phải có kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác. Người chỉ rõ, muốn nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ.

(2) Giải pháp từ phía cán bộ, đảng viên:

Thứ nhất, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Hồ Chí Minh căn dặn, Đảng là đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động chứ không mưu cầu cho lợi ích của một nhóm người nào, một cá nhân nào. Đảng viên là người thay mặt Đảng, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, lợi ích của người đảng viên phải ở trong chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp. Người khẳng định: “Đạo đức cách mạng là vô luận, trong hoàn cảnh nào người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”.

Thứ hai, phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Mối quan hệ Đảng – Dân luôn là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”.

Hồ Chí Minh phê phán những cán bộ, đảng viên xa rời thực tế, bắt quần chúng làm theo ý muốn, tư tưởng chủ quan của mình. Người gọi đó là những cán bộ, đảng viên làm việc theo cách khoét chân cho vừa giầy. Chân là quần chúng. Giầy là cách tổ chức và làm việc của ta. Ai cũng đóng giầy theo chân, không ai đóng chân theo giầy. Người kết luận: “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”.

Hồ Chí Minh suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân và Người cũng suốt đời quan tâm, chăm sóc con người, tôn trọng nhân cách, tính cách, sở trường cá nhân, không vì chống chủ nghĩa cá nhân mà rơi vào giáo điều, cực đoan là phủ nhận vai trò, tài năng sáng tạo của cá nhân. Xác định thái độ và phương pháp đúng đắn, hài hòa, thấu lý đạt tình giữa phát triển cá nhân và phát triển xã hội.

  1. Tấm gương Hồ Chí Minh về nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

3.1. Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại.

Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu cho cả cuộc đời mình là vì nước, vì dân. Trên con đường thực hiện mục tiêu đó, Người đã chấp nhận sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện bằng được mục tiêu đó.

3.2. Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt được mục đích cách mạng.

Cuộc đời Người là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách, bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Người tự răn mình:

“Muốn nên sự nghiệp lớn

Tinh thần phải càng cao”

3.3. Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.

Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người. Người luôn tin ở con người, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; “người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”.

3.4. Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.

Với tình yêu thương bao là, Người dành tình thương yêu cho tất cả, chia sẻ với mỗi người những nỗi đau. Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”.

3.5. Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn giản dị.

Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang trọng. Suốt đời Người sống trong sạch, vì dân, vì nước, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người đã đề ra tư cách người cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình gương mẫu thực hiện.

Phần thứ hai:

CÁN BỘ ĐOÀN HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH GẮN VỚI VIỆC NÊU CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

 

  1. Nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân đối với thế hệ trẻ

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Muốn có những con người xã hội chủ nghĩa, cần tập trung giáo dục lớp thanh niên, lực lượng kế cận sự nghiệp cách mạng của dân tộc thực sự “vừa hồng, vừa chuyên”. Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người đã dặn lại toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Theo Người “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” là bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. 

Với quan điểm “đạo đức là gốc của người cách mạng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên. Người rất chú trọng đến việc giáo dục những phẩm chất cao quý như cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, những tác phong đẹp đẽ như khiêm tốn, giản dị. Người thường nói, thanh niên ta phải trau dồi đạo đức cách mạng, đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân. Thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về giáo dục tư tưởng, Người chú ý đến việc chống chủ nghĩa cá nhân, giáo dục ý thức làm chủ tập thể cho thanh niên. Người nói: “Nói chung thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa, trước hết phải rèn luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gột rửa cá nhân chủ nghĩa”. Người cũng từng dặn dò thanh niên: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà! Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”. Những lời dặn của Bác tuy giản dị mà súc tích, sâu lắng thể hiện không chỉ ở sự quan tâm sâu sắc đến thế hệ trẻ, mà Người còn đòi hỏi ở thế hệ trẻ những phẩm chất đạo đức của người thanh niên mới.

Ban Chấp hành Trung ương ban hành Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Việc triển khai thực hiện Kết luận số 21-KL/TW đòi hỏi “nhận thức của chúng ta phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn và phương pháp phải đúng” như phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại hội nghị. Điều đó đặt ra nhiều yêu cầu mới, cao hơn đối với cả hệ thống chính trị, trong đó có tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Nếu như Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) xác định quan điểm “Xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước” thì nay đặt ra yêu cầu xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trước một bước. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, vì vậy muốn chủ động đấu tranh, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì phải làm từ sớm, từ xa, phải bắt đầu từ đoàn viên và đảng viên trẻ, mà trọng tâm là kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật cho thanh niên. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân” mà đòi hỏi thanh niên phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích của mình với lợi ích của tập thể và của xã hội làm cho lợi ích cá nhân và lợi ích tập thế phát triển hài hòa “Nếu những lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể” . Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng cùng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho thanh niên, hình thành phẩm chất cao đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa.  Dưới sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo được triển khai bằng các hoạt động cụ thể của các cấp bộ Đoàn, trong những năm qua, thế hệ trẻ Việt Nam luôn khắc sâu những lời dạy của Bác Hồ, đã và đang chứng tỏ vai trò là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, chúng ta cũng thẳng thắn đối diện với những tồn tại, hạn chế, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trong thanh niên cần được khắc phục như: vẫn có không ít người phai nhạt niềm tin, lý tưởng; mất phương hướng phấn đấu; không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống thực dụng; đòi hỏi hưởng thụ mà lười rèn luyện; đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, đất nước; thiếu trách nhiệm, thờ ơ với cái chung,…

Do đó, để khắc phục những hạn chế trên, cùng với nhiều giải pháp, việc giáo dục nâng cao nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân đối với thế hệ trẻ là rất cần thiết, qua đó giúp họ hoàn thiện nhân cách, định hướng giá trị trong lối sống và hành động, trong phát triển năng lực sáng tạo và trong ý chí, nghị lực, bản lĩnh, xây dựng một lớp thanh niên “vừa hông, vừa chuyên” như lời Bác Hồ kính yêu đã căn dặn.

  1. Nêu cao bản lĩnh chính trị, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ Đoàn

Trước hết, đó là bản lĩnh chính trị. Đối với mỗi con người, đặc biệt là người cán bộ, bản lĩnh là tố chất cần thiết quyết định sự vững vàng vàng, tính kiên định, sự độc lập, chủ động trong hành động trước mọi hoàn cảnh, nhất là  trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu đã lựa chọn, trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin, ý chí chiến đấu.

Bản lĩnh chính trị của người cán bộ Đoàn trong giai đoạn hiện nay thể hiện ở sự luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới của Đảng. Ngoài ra, bản lĩnh chính trị còn được thể hiện trong hành động. Đó là sự vững vàng, kiên định, không dao động trước mọi tình huống, sự quyết tâm phấn đấu vượt mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu và “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá chế độ ta của các thế lực thù địch. Đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội” . Để thực hiện nhiệm vụ đó, bản thân cán bộ Đoàn phải không ngừng phấn đấu trong học tập và rèn luyện, đặc biệt là phải có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi biến động của hoàn cảnh. Rèn luyện bản lĩnh chính trị là yêu cầu và nhiệm vụ quan trọng của cán bộ Đoàn trong bối cảnh Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đang đẩy mạnh giáo dục bản lĩnh chính trị cho thế hệ trẻ và đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018, của Bộ Chính trị khóa XII “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

Bản lĩnh chính trị của cán bộ Đoàn thể hiện ở sự vững vàng trong quan điểm, lập trường chính trị; ở sự “nhạy bén chính trị”, sự tôn trọng chuẩn mực “chân, thiện, mỹ” để ứng xử một cách độc lập, sáng tạo trong đời sống chính trị – xã hội. Đó là sự kết tinh các phẩm chất tâm lý tích cực, tốt đẹp để từ đó thể hiện sự kiên định, ý chí trung thành với lý tưởng mà mình đã tin, đã yêu và đã chọn. Thanh niên có bản lĩnh chính trị vững vàng thể hiện ngay ở nhận thức, hành vi, lối sống, trong hoạt động xã hội và qua việc noi theo các tấm gương tiêu biểu.

Để có bản lĩnh chính trị vững vàng, người cán bộ Đoàn cần phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin. Trước khó khăn, thử thách không nao núng tinh thần, không mất phương hướng chính trị và có thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định.

Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng sự nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình. Bản lĩnh chính trị được rèn luyện qua hoạt động thực tiễn. Người cán bộ Đoàn cần thường xuyên tự rèn luyện mình qua thực tiễn sản xuất, công tác, hoạt động trong các phong trào Đoàn. Chỉ có sự hiểu biết sâu rộng, trải nghiệm dày dạn qua trường học thực tiễn, người cán bộ Đoàn mới trở nên vững vàng, kiên định.

Cùng với việc rèn luyện bản lĩnh chính trị, người cán bộ Đoàn còn phải thường xuyên nêu cao tính tiên phong gương mẫu. Điều đó được thể hiện trước hết phải luôn trau dồi lý tưởng sống cao đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời đại mới. Sinh thời, lý tưởng mà Hồ Chí Minh quan tâm bồi dưỡng cho thế hệ trẻ là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong giai đoạn hiện nay, lý tưởng đó được cụ thể là không ngừng học tập và rèn luyện, là ra sức phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, luôn tin tưởng và kế thừa thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tính tiên phong gương mẫu của người cán bộ Đoàn còn được thể hiện trong việc luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên mọi cương vị được giao. Để được như vậy, người cán bộ Đoàn phải luôn nâng cao bản lĩnh chính trị; nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn. Phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Sinh thời, Hồ Chí Minh thường nhắc nhở, người cán bộ cần phải chú trọng học tập quần chúng, học tập những kinh nghiệm của quần chúng đã đúc kết được, học tập theo nhiều hình thức chứ không chỉ học trong trường lớp, học để vận dụng vào công việc cách mạng. Thanh niên là lớp người có nhiều đặc điểm về tâm lý, xã hội. Họ đang trong quá trình hoàn thiện về nhân cách nhưng họ lại rất thiếu từng trải, thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống. Vì vậy đòi hỏi người cán bộ Đoàn, người làm công tác thanh niên phải gương mẫu cả về phẩm chất đạo đức, lối sống. Theo Hồ Chí Minh, cần trau dồi đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng có nội dung rất phong phú. Đó là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng; là luôn khiêm tốn, chống kiêu căng, tự mãn, chống lãng phí, xa hoa, cần kiệm trong lao động, học tập, công tác. Hồ Chí Minh còn dạy, để có đạo đức cách mạng, phải tu dưỡng rèn luyện không ngừng nghỉ, cũng như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Ngày nay, đạo đức cách mạng còn là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Công cuộc đổi mới đất nước ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã giành được rất nhiều thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, nhưng đồng thời cũng đang đặt ra rất nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi hơn lúc nào hết, người cán bộ Đoàn phải thường xuyên rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, tính tiên phong gương mẫu trong mọi lúc, mọi nơi, cả trong công việc, cả trong cuộc sống đời thường. Chỉ có như vậy, người cán bộ Đoàn mới thực sự là tấm gương quy tụ các đoàn viên, thanh niên, phát huy tiềm năng to lớn của thanh niên đóng góp vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cần xác định nội dung đột phá là tập trung nâng cao tính chính trị và tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ Đoàn; ngăn chặn từ sớm, từ xa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Đồng thời, phát huy vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và hệ thống chính trị. Cùng với đó là các giải pháp về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp; tham gia giám sát, phản biện xã hội theo quy định của Đảng và phân công của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thường xuyên đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nội dung của Kết luận 21 trong hệ thống Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

Để nâng cao tính chính trị và tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ Đoàn, cần triển khai nhiều nhóm giải pháp. Trong đó, cán bộ Đoàn cần thực hiện Hướng dẫn triển khai đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong đoàn viên, thanh niên giai đoạn 2022 – 2026. Đặc biệt, là việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là nội dung quan trọng hàng đầu để xây dựng Đoàn vững mạnh về chính trị. Các cấp bộ Đoàn và cán bộ Đoàn đổi mới học tập các chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cụ thể hóa thành những việc cán bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên cần làm để trở thành những con người mới có đạo đức cách mạng, có lẽ sống và khát vọng, có tinh thần dấn thân, lòng nhân ái, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Bên cạnh đó, hàng năm cán bộ Đoàn cũng cần đánh giá việc triển khai chương trình “Rèn luyện đoàn viên”. Mỗi cơ sở đoàn xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên gắn với đối tượng đoàn viên, thanh niên của đơn vị mình nhằm cụ thể hóa cuộc vận động “Xây dựng hình mẫu giá trị thanh niên Việt Nam thời kỳ mới”. Thực hiện hiệu quả và thực chất Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn về việc “Tăng cường rèn luyện tác phong, thực hiện lề lối công tác của cán bộ Đoàn” gắn với việc đề cao vai trò nêu gương của cán bộ Đoàn, Hội, Đội, nhất là người đứng đầu.

  1. Cán bộ Đoàn rèn luyện năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, trong công tác đoàn, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm trách nhiệm luôn là một yêu cầu đặt ra, đòi hỏi người cán bộ Đoàn phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu để hoàn thành tốt những công việc, chức trách được giao.

Trước hết, về phẩm chất, không ngừng bồi dưỡng phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Phẩm chất chính trị được thể hiện ở sự kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa, là niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Phẩm chất đạo đức được thể hiện ở tinh thần là “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, là cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Xây dựng lối sống mới – lối sống văn hóa thể hiện ở sự gương mẫu chấp hành pháp luật, nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân. Rèn luyện đạo đức, lối sống, nếp sống văn minh, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc.

Nâng cao phẩm chất cho cán bộ đoàn bao gồm: Nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, hình thành lập trường, quan điểm, tư tưởng vững vàng, kiên định trước mọi khó khăn, thách thức, hình thành bản lĩnh chính trị cho từng cán bộ, đoàn viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng về việc làm của mình. 

Về năng lực, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình và nhiệm vụ được tổ chức, đoàn thể giao bảo đảm chất lượng, hiệu quả cao.

Nâng cao năng lực về mọi mặt, trong đó năng lực tư duy lý luận phải dựa trên thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin; năng lực chuyên môn phải thông thạo, phải giỏi; năng lực tổ chức, lãnh đạo và vận động nhân dân phải nhạy bén; năng lực hoạt động thực tiễn và tổng kết thực tiễn phải tốt để phát triển lý luận.

Tăng cường rèn luyện tác phong, thực hiện lề lối công tác của cán bộ Đoàn. Thực hiện nghiêm quy định những điều “nên làm” và những điều “không nên làm” đối với cán bộ Đoàn. Thực hiện phương châm “trên trước, dưới sau” (cấp trên, cán bộ Đoàn cấp trên gương mẫu thực hiện trước, làm trước), “trong trước, ngoài sau” (đoàn viên gương mẫu thực hiện trước), “học đi đôi với làm theo”, lấy kết quả “làm theo” là thước đo để đánh giá kết quả của các tập thể, cá nhân.

Thường xuyên đi xuống cơ sở, nắm bắt tình hình thực tiễn phong trào Đoàn ở cơ sở. Kiểm tra, thanh tra việc thực thi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về công tác thanh niên. Kiểm tra việc cụ thể hóa các chương trình công tác của Đoàn để kịp thời nắm bắt tình hình, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai, thực hiện, qua đó tham mưu các nội dung sát với tình hình thực tế các địa phương, đơn vị, đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ công tác được tốt hơn.

Nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ đoàn bao gồm: Nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng. Nâng cao năng lực về mọi mặt, trong đó năng lực tư duy lý luận phải dựa trên thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin; năng lực chuyên môn phải thông thạo, phải giỏi; năng lực tổ chức, lãnh đạo và vận động nhân dân phải nhạy bén; năng lực hoạt động thực tiễn và tổng kết thực tiễn phải tốt để phát triển lý luận…Nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, hình thành lập trường, quan điểm, tư tưởng vững vàng, kiên định trước mọi khó khăn, thách thức, hình thành bản lĩnh chính trị cho từng cán bộ, đoàn viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng về việc làm của mình. Nâng cao phẩm chất đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng cho cán bộ đoàn, đoàn viên, có thể tóm tắt trong mấy điểm: Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp; Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm”, “gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người”; Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ.

———